Điện Biên vùng đất hội tụ

Thứ Bảy, 29/04/2017, 18:25 [GMT+7]

Điện Biên TV - Điện Biên, miền đất nơi biên viễn của Tổ quốc không chỉ là miền đất hội tụ 19 dân tộc sinh sống, với 19 sắc màu văn hóa khác nhau. Đây còn là miền đất có lịch sử phát triển lâu đời, là địa danh ghi dấu ấn lịch sử thời đại. Phát huy thế mạnh của vùng đất lịch sử, của những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc, Điện Biên hôm nay đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách bốn phương.

Điện Biên có đặc điểm địa hình phong phú, là một trong các yếu tố quan trọng hình thành nên các vùng dân cư với phong tục, tập quán và những nét văn hóa truyền thống rất khác biệt. Theo địa bàn cư trú của các dân tộc Điên Biên, vùng thung lũng lòng chảo thấp, là nơi sinh sống của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường và Thái-Kađai, gồm: Đồng bào dân tộc Thái, dân tộc Lào, dân tộc Tày và dân tộc Kinh. Vùng rẻo giữa hay các sườn núi, là nơi sinh sống của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer như dân tộc Khơ Mú, dân tộc Kháng… Còn vùng rẻo cao là nơi cư trú của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, Tạng - Miến như: dân tộc Mông, Dao, Phù Lá, Hà Nhì, Si La… Hiện nay Điện Biên là địa bàn cư trú của các cư dân thuộc 19 dân tộc. Trong quá trình sinh sống, tạo lập cộng đồng, họ không chỉ xích lại gần nhau, mà còn ngày càng trở nên gắn bó.

1
Điện Biên - Miền đất hội tụ 19 dân tộc sinh sống, với 19 sắc màu văn hóa khác nhau

 

Nằm trên miền Tây Bắc vời vợi nghìn trùng, nơi có đường biên giới giáp với các tỉnh Bắc Lào và Vân Nam Trung Quốc, lại có các con đường thủy, bộ tỏa đi khắp miền Đông Nam Á, Điện Biên không chỉ là vùng đất thu hút nhiều nhóm cư dân đến sinh cư, lập nghiệp. Nơi đây còn được biết đến như một vùng đất cổ kính.

Người dân tộc Thái khu vực Tây Bắc coi Điện Biên là chốn cội nguồn linh thiêng. Nơi đây gắn với cả một hệ thống các truyền thuyết của họ về thuở khai thiên, lập địa, khi mới sinh ra loài người. Các truyền thuyết này được ghi lại trong Chuyện kể bản mường của người Thái đen. Đó là truyền thuyết Tẩu Pung hay quả bầu mẹ sinh ra các tộc người, truyền thuyết Ải Lậc Cậc được vua trời cử xuống trần gian khai phá đất Mường Thanh, chuyện về hồ U Va có đường lên trời là dây Khau Cát nối trời và đất. Ông mo Vì Văn Hiêng ở bản U Va, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, người thuộc nằm lòng nhiều truyện thơ dân tộc chính là cây huyền sử sống, người lưu truyền những câu chuyện cổ này. Qua ông mo Hiêng chúng tôi được biết: Đối với người dân tộc Thái, U Va là chốn thiêng liêng, bởi đây là nơi tiễn biệt hồn người chết lên trời.  
 
Không chỉ là huyền tích, giới khảo cổ học cũng đã có những phát hiện về dấu tích của các cư dân Việt Cổ thời kỳ đồ đá và thời kỳ đồ đồng sớm, tại vùng lòng chảo Mường Thanh, và một số địa phương nằm trong vùng bán kính khoảng 100 km so với khu vực này. Các di vật này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng dân tộc tỉnh Điện Biên. Đó là các mảnh tước, công cụ ghè, đẽo của người Việt cổ tại hang Thẩm Khương, thuộc xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo và các di chỉ trong lòng hồ thủy điện Sơn La tại thị xã Mường Lay và xã Huổi Só, huyện Tủa Chùa. Đó là các trống đồng hệ Hê-gơ II và III, phát hiện được tại các xã, phường thuộc huyện Điện Biên và thành phố Điện Biên Phủ.

1
Bản đồ hành chính tỉnh Điện Biên

 

Lịch sử của vùng đất cổ Điện Biên còn được ghi lại qua các cuốn dư địa chí và nghiên cứu, biên khảo, dịch thuật về lịch sử vùng từ thế kỷ 18 trở lại đây như: Hưng hóa xứ phong thổ lục của Hoàng Bình Chính;  Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật. Những ghi chép trong các thư tịch cổ cho thấy, với vị trí đắc địa, từ xa xưa Điện Biên từng là khu vực dân cư phát triển với các hoạt động giao thương sôi nổi.

Theo Hưng Hóa xứ Phong thổ lục do Hoàng Bình Chính biên soạn vào năm 1778 thì Điện Biên thuộc châu Ninh Biên: “châu này trước là đất mán Mường Thanh (…) Người Ai lao, Nam Man và Xa Lý đến buôn bán sầm uất, cũng là một nơi đô hội ngoài biên giới. Nhân dân phong thổ tuy là cựu tục Ai Lao, nhưng người Kinh, người Hán, người Man, người Lão tạp cư với nhau…” Còn Hưng Hóa Ký Lược của Phạm Thận Duật viết vào năm 1856 lại nói về tòa thành cổ Sam Mứn hiện vẫn còn dấu tích tại vùng lòng chảo Điện Biên

“Thành Tam Vạn thuộc xã Bà Man, ngoài thành có sông Sâm, khe Đóa và Suối Hung Sát bao quanh, tạo thành các hào thiên nhiên. Thành cách suối Bì, nước Nam Chưởng 2 ngày đường. Thành cao độ 1 trượng, 2 thước, ngoài có hào. Thành Tam Vạn có một đền thờ có 1.000 pho tượng.” Các thư tịch cổ cũng khẳng định, từ khoảng thế kỷ XI, Mường Thanh là vùng đất do các chúa Lự cai quản. Họ chính là những chủ nhân đầu tiên của vùng đất này.

Thành Tam Vạn do các chúa Lự xây dựng chính là minh chứng cho thời kỳ hưng thịnh của dân tộc Lự trên đất Mường Thanh. Chính vào thời kỳ này, một nhóm người Thái từ Mường Lò đã theo chúa Thái Lạng Chượng tới đây. Cuộc thiên di lịch sử này được kể lại rất rõ trong Truyện kể bản mường của người Thái đen Điện Biên, trong đó có đoạn viết: Bấy giờ Lạng Chượng là con út của Tạo Lò đưa một đoàn quân hùng mạnh triệu triệu, vạn vạn kéo đi (…) Ngắm sông núi, địa hình ở Mường Thanh, Lạng Chượng vui mừng phấn khởi. “Ông Lạng Chượng đi quanh Mường Thanh. Mường Thanh tròn như cái đai mẹt. Mường cong như sừng trâu. Mường to ông mới ở. Mường rộng ông mới ăn”. Từ khi chúa Lạng Chượng đến Mường Thanh, nơi đây đã trở thành vùng dân cư đông đúc với cảnh sống nhộn nhịp: “suốt ngày nghe tiếng hát dưới đồng, thâu đêm nghe tiếng trai gái tỏ tình bên đồi bên nương, Lự chài ven sông được cá. Thái gặt lúa dưới đồng. Xá giã gạo trên sàn nhà bình bong.”

Là vùng đất trù phú, thu hút nhiều nhóm dân tộc đến sinh cư, lịch sử đất Mường Thanh cũng đã có không ít sự kiện dữ dội, bi hùng. Những biến động của lịch sử thường cũng kéo theo sự thay đổi về dân cư và xã hội. 19 đời chúa Lự thay nhau cát cứ Mường Thanh. Trong quãng thời gian ấy, họ liên tục phải chống lại sự xâm lấn của giặc Phẻ từ biên giới phía Tây, và âm mưu thôn tính của thế lực ngày càng lớn mạnh, là các nhóm Thái thiên di đến sau. Vào khoảng thế kỷ XVIII người Lự bị đánh bật bởi các chúa Thái. Nhưng rồi sự chia rẽ nội bộ giữa các chúa Thái khiến họ thất bại trước giặc Phẻ, chịu mất thành, mất đất. Chính vào thời điểm ấy nghĩa quân Hoàng Công Chất từ miền xuôi kéo lên, cùng với các tù trưởng địa phương dẹp tan giặc Phẻ, xây thành Bản Phủ, giữ bình yên cho dải đất biên viễn trong nhiều năm. Các nhà nghiên cứu lịch sử đều phỏng đoán, đây là thời điểm người dân tộc Kinh có mặt lần đầu tiên tại Điện Biên. Họ là những người theo Hoàng Công Chất, thủ lĩnh áo vải người Vũ Thư, Thái Bình lên giải phóng Mường Thanh. Tuy nhiên, do đến đây trong hoàn cảnh bị triều đình truy đuổi, nên nhóm người này đã phải mai danh ẩn tích và đồng hóa với dân cư bản địa.

Nói về sự có mặt của người Kinh ở Điện Biên và tác động lớn của nhóm dân cư mới tới sự phát triển vùng, phải nói tới những đợt vận động người dân miền xuôi đi xây dựng quê hương mới của Chính phủ, trong suốt thời kỳ từ sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 thắng lợi đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Những khu dân cư tập trung đông người dân tộc Kinh được xây dựng lần đầu tiên trên vùng lòng chảo Điện Biên, là các khu gia binh và tập thể nông, lâm trường quốc doanh.

1
Nghĩa trang A1 nơi yên nghỉ của các anh hùng liệt sỹ là điểm đến của du khách khi đến thăm mảnh đất lịch sử Điện Biên Phủ

 

Những năm sau giải phóng Điện Biên, mảnh đất chiến trường xưa đã khoác lên mình màu áo mới, Điện Biên lại tiếp tục đón nhận hàng nghìn người dân miền xuôi lên định cư trong nhiều đợt khác nhau.

Dân cư ngày một đông đúc, đồng ruộng màu mỡ, rộng lớn của vùng lòng chảo Điện Biên và các vùng lân cận, được người dân bản địa cùng những cư dân mới đến mở mang, khai khẩn. Khu vực thành Bản phủ, nơi nghĩa quân Hoàng Công Chất từng đứng trụ cũng là nơi đón nhận hàng trăm hộ dân từ quê hương Thái Bình lên xây dựng vùng kinh tế mới. 

Với lịch sử phát triển hàng nghìn năm, Điện Biên vùng đất phên dậu của tổ quốc nơi cuối trời Tây Bắc đã trải qua không biết bao nhiêu vận động, biến đổi. Ở thời kỳ nào nơi đây cũng là vùng đất đầy sức hút, là nơi hội tụ của nhiều nhóm cư dân, trở thành vùng đất đa dân tộc, đa sắc màu văn hóa. Ngày nay trên dải đất này, người dân tộc Thái, dân tộc Mông, người dân tộc Kinh, cùng các dân tộc anh em khác, sống trong khối tình đại đoàn kết, đã và đang cùng nhau xây dựng Điện Biên ngày một giàu hơn và đẹp hơn.

Những giá trị lịch sử và văn hóa cộng đồng các dân tộc Điện Biên đang gìn giữ, chính là cái làm nên sức hút mời gọi bạn bè trong nước và quốc tế đến với miền đất này. Năm 2016, Điện Biên thu hút được trên 480.000 lượt khách du lịch, trong đó có trên 80.000 lượt khách quốc tế đến tham quan. Mỗi người đến đây đều có được cảm nhận rất riêng về vẻ đẹp của vùng đất và con người nơi này.
  

1
Một góc của thành phố Điện Biên

 

Thành phố trẻ Điện Biên Phủ, trung tâm chính trị, kinh tế của tỉnh Điện Biên đang ngày được mở mang, trở thành thành phố du lịch của khu vực Tây Bắc. Khu du lịch quốc gia Điện Biên Phủ - Pá Khoang đã được quy hoạch, không chỉ là nơi lưu giữ những ký ức hào hùng của dân tộc, mà còn trở thành nơi lưu giữ nhiều giá trị truyền thống, và trở thành vùng cảnh quan đầy sức cuốn hút. Vươn lên trong kỷ nguyên mới, Điện Biên vẫn luôn là vùng đất của tinh hoa và hội tụ.
                                                                               

Minh Giang – Anh Tuấn

.